Chăn nuôi công nghệ cao hiện đang là xu hướng phát triển của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, song song với việc chăn nuôi công nghệ cao phát triển quá nóng là những thách thức cần được xem xét và giải quyết đồng thời, nhằm đảm bảo phát triển ngành một cách bền vững.
Chăn nuôi công nghệ cao: Xu thế tất yếu
Ngày nay, các nhà chăn nuôi, chủ trang trại đang phải đối mặt với một loạt những áp lực cạnh tranh, khi mà thị trường đầu ra của các sản phẩm có nguồn gốc từ chăn nuôi đang trong giai đoạn biến động do ảnh hưởng của chiến tranh kinh tế, đại dịch Covid-19, giá nguyên liệu tăng cao, giá bán đầu ra của sản phẩm chăn nuôi không ổn định.
Đặc biệt, thị trường chăn nuôi còn bị tác động trực tiếp từ các loại dịch bệnh có tính lây lan lớn không chỉ ở quy mô một quốc gia mà chúng có thể lây lan ở cấp châu lục hay toàn cầu như bệnh cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục, dịch tả lợn châu Phi và bệnh tai xanh trên lợn.
Thay đổi cơ cấu chăn nuôi sau khi ASF xảy ra ở châu Á – Nguồn: USDA, 2020 (Trích từ Báo cáo của ông Đặng Ngọc Hoàng, TGĐ MSD Animal Health VN tại AVS2021)
Để duy trì sự cạnh tranh trước tác động mạnh mẽ của những yếu tố trên, ngành chăn nuôi buộc phải thích ứng, thay đổi theo chiều hướng chăn nuôi quy mô lớn, công nghiệp hóa và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong chăn nuôi để duy trì lợi thế cạnh tranh.
Chăn nuôi truyền thống tuy có ít rủi ro nhưng lại có năng suất quá thấp, không đáp ứng được nhu cầu sản phẩm ngày càng tăng của xã hội cũng như yêu cầu phát triển kinh tế. Ngược lại, chăn nuôi công nghiệp có thể đem lại năng suất cao, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng lại đối mặt với nhiều rủi ro bao trùm.
Do vậy, ứng dụng công nghệ cao một cách thông minh trong chăn nuôi là một xu hướng phát triển tất yếu, nhằm khai thác lợi thế của khoa học công nghệ, để tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn tài nguyên, vừa đem lại năng suất chăn nuôi cao, giảm giá thành sản phẩm, do đó mà thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời giảm thiểu được các rủi ro về xã hội, môi trường, kinh tế và phúc lợi động vật.
Muốn vậy, việc ứng dụng công nghệ cao phải đồng bộ, không ngừng đổi mới sáng tạo , gắn với liên kết chuỗi giá trị, hướng tới nông nghiệp tuần hoàn dưới sự điều tiết của Nhà nước, hài hòa lợi ích của Tam nông.
Quản lý chăn nuôi theo truyền thống được biết đến là điều hành hoạt động kinh doanh của các trang trại lợn, trang trại gia cầm, trang trại bò sữa, trại chăn nuôi gia súc hoặc các doanh nghiệp nông nghiệp liên quan đến chăn nuôi khác. Người quản lý vật nuôi phải lưu giữ hồ sơ tài chính chính xác, giám sát người lao động và đảm bảo việc chăm sóc và cho vật nuôi ăn đúng cách.
Tuy nhiên, những xu hướng gần đây đã chứng minh rằng công nghệ đang cách mạng hóa thế giới về quản lý chăn nuôi. Những phát triển mới trong nhiều năm qua đã tạo ra những cải tiến to lớn cho ngành công nghiệp giúp theo dõi và quản lý vật nuôi dễ dàng hơn nhiều và dựa trên dữ liệu. Công nghệ này có thể ở dạng công nghệ dinh dưỡng, di truyền, công nghệ kỹ thuật số…
Ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ thuật số trong chăn nuôi là một xu hướng tất yếu của thời đại công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, để công nghệ thông tin phát huy hiệu quả trong chăn nuôi thì các giải pháp này cần phải đáp ứng được các yêu cầu như:
Tạo ra lợi thế cạnh tranh, giảm giá thành, giảm công lao động, tăng năng suất, tạo ra sự minh bạch về dữ liệu giúp quá trình truy xuất nguồn gốc được dễ dàng trong chuỗi cung ứng. Các dữ liệu cung cấp từ các thiết bị đo lường trong trại phải thực sự dễ dàng truy cập và truy cập được từ xa.
Dữ liệu thu thập được phải chính xác, tin cậy và liên tục được cập nhật vào thời gian thực. Các thiết bị phải thực sự thân thiện với người dùng như dễ lắp đặt, dễ thao tác, công tác bảo trì bảo dưỡng phải đơn giản”.
Hiệu quả được ghi nhận
Ông Trần Văn Thắng (xã Thọ An, huyện Đan Phượng, Hà Nội) cho biết, gia đình ông đang nuôi hơn 500 con bò thịt và 1 khu nuôi trùn quế nhằm tạo ra nguồn thực phẩm sạch, an toàn…Để gia tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, ông đã đầu tư xây dựng chuồng trại khép kín, xây dựng hệ thống xử lý môi trường, ứng dụng công nghệ cao vào chăn nuôi. Hiện, trang trại của gia đình ông cho thu nhập hơn 1 tỷ đồng/năm.
Theo các doanh nghiệp đã thành công trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi thì chính sự bùng nổ của công nghệ 4.0 giúp cho các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam vươn xa. Công nghệ cao chính là chìa khóa vàng cho nông nghiệp và quyết định áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật chăn nuôi sẽ mang lại nhiều lợi ích và thành quả cho nền nông nghiệp Việt Nam.
Đằng sau làn sóng 4.0…
Những đóng góp của khoa học công nghệ trong sản xuất, chăn nuôi cho thấy việc phát triển sản xuất ứng dụng công nghệ cao là hướng đi đúng, đã và đang tạo động lực mới cho ngành chăn nuôi Việt Nam.
Dù vậy không có nghĩa bức tranh tổng quan đều là màu hồng, dù có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, ngành chăn nuôi công nghệ cao vẫn còn gặp phải không ít khó khăn. Mô hình sản xuất này đồng nghĩa với việc tổ chức sản xuất phải được thực hiện trên quy mô tương đối lớn và đầu tư tương xứng về mặt hạ tầng, công nghệ sản xuất trong khi dòng vốn đầu tư vào chăn nuôi tại nước ta còn thấp.
Bên cạnh đó, thiếu đất quy mô lớn để đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ theo vùng sản xuất tập trung; thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn hạn hẹp, không ổn định; bất cập trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, nhân lực còn hạn chế…là những rào cản cho phát triển chăn nuôi công nghệ cao thời gian qua.
Câu hỏi đặt ra là, liệu ngành chăn nuôi Việt Nam đã phát triển đồng bộ, theo kịp 4.0 hay chưa?
Việc ứng dụng công nghệ cao vào chăn nuôi vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức như đòi hỏi nguồn vốn lớn và quỹ đất rộng. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi còn hạn hẹp, không ổn định, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của một số sản phẩm chưa tương xứng với mức độ đầu tư.
Bên cạnh đó, tăng trưởng chưa bền vững, nhất là vấn đề kiểm soát dịch bệnh, an toàn thực phẩm, môi trường và thị trường sản phẩm là vấn đề ngành chăn nuôi đang phải đối mặt. Trừ chăn nuôi bò sữa, còn lại hầu hết các lĩnh vực, việc tổ chức chăn nuôi theo chuỗi liên kết còn chiếm tỷ lệ thấp cả về quy mô và mức độ liên kết, hiệu quả chưa cao.
Việc xây dựng vùng an toàn dịch bệnh để sản phẩm đáp ứng với các tiêu chuẩn của quốc tế vẫn chưa thỏa đáng. Mặt khác thời hạn cho thuê đất hiện nay ngắn (5 năm), sau đó phải đấu giá lại mới được thuê tiếp nên người dân, doanh nghiệp chưa yên tâm đầu tư lâu dài.
Khi xây dựng trang trại công nghệ cao còn thiếu những công nghệ cao mang tính tiên tiến hàng đầu, chưa tạo được sự đột biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thị trường tiêu thụ sản phẩm còn thấp, chưa tương xứng mức độ đầu tư.
Một số chính sách ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ nên khó thu hút được các nguồn lực xã hội, doanh nghiệp đầu tư cho chăn nuôi nhất là về xây dựng cơ sở giết mổ, chế biến sâu sản phẩm động vật công nghệ cao.
Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, quỹ đất giành cho phát triển chăn nuôi ngày càng bị thu hẹp dẫn đến phát triển sản xuất manh mún, thiếu bền vững, ô nhiễm, hạ tầng phục vụ chăn nuôi (như giao thông, điện, hệ thống xử lý môi trường…) thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu về chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao.
Bên cạnh đó, xét về yếu tố cung – cầu hiện nay, Việt Nam cơ bản đáp ứng được cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, với sự phát triển ồ ạt của 4.0, thì việc tỷ trọng xuất khẩu còn thấp, dường như không tương xứng.
Nguồn: Tham khảo